Phòng sạch thông thường được phân chia cấp độ dựa theo số lượng, kích thước hạt bụi tồn tại trong không khí và tiêu chuẩn này được đa phần nhiều bên sử dụng. Tuy vậy, điều này không thể hiện trạng thái vi sinh vật trong phòng sạch, là một yếu tố quan trọng trong các phòng sạch liên quan đến y tế, dược phẩm, và nghiên cứu gen.
Phòng sạch thông thường được thiết kế theo các tiêu chuẩn kiểm soát về nhiệt độ, độ ẩm, áp suất, và đặc biệt là hàm lượng hạt, kích thước hạt trong không khí. Không khí được đánh giá là sạch khi đi qua các màng lọc của hệ thống phòng sạch. Nhưng dù được lọc một cách quy chuẩn, chúng ta vẫn không thể phân biệt rõ ràng giữa các hạt bụi vật lý và vi sinh trong không khí mà thường mặc định ít nguồn ô nhiễm thì vi sinh cũng ít hơn và khó phát triển.
Có rất nhiều vi sinh vật liên kết với các hạt vật lý và lơ lửng trong không khí, sự hiện hữu của chúng nếu ở mật độ cao có thể ảnh hưởng đên các sản phẩm trong quy trình sản xuất của phòng sạch. Chính vì vậy ở một số phòng sạch hiện đại có giám sát xu hướng hình thành và phát triển của vi sinh vật, giúp đưa ra cảnh báo và đánh giá khi các thông số vượt qua tiêu chuẩn.
Đọc thêm: Các nguồn ô nhiễm trong phòng sạch.
Hướng dẫn thực hành tốt sản xuất thuốc (GMP) của WHO (Tổ chức y tế thế giới) có yêu cầu kiểm soát mức độ vi sinh trong các khu vực sạch cấp độ A, B, C, D. Để kiểm nghiệm và kiểm soát, người ta có các phương pháp lấy mẫu như: Lấy mẫu từ không khí, đặt đĩa thạch, lấy mẫu trên bề mặt,… và đo kết quả theo bảng sau
Bảng giới hạn mức độ ô nhiễm vi sinh vật theo giá trị trung bình
Cấp sạch | Lấy mẫu không khí (CFU/m³) | Đặt đĩa thạch (đường kính 90mm – CFU/4h) | Đĩa thạch tiếp xúc (đường kính 55mm – CFU/đĩa) | In găng tay (5 ngón tay – CFU/găng) |
A | < 1 | < 1 | < 1 | < 1 |
B | 10 | 5 | 5 | 5 |
C | 100 | 50 | 25 | – |
D | 200 | 100 | 50 | – |
Để lấy mẫu bề mặt, nhân viên kiểm định sẽ lấy gạc và nhùng phần đàu mút vào ống nghiệm có chứa dịch pha loãng để làm ẩm. Sau đó lau phần đầu mút lên bề mặt vùng rộng khoảng 20 – 100 cm². Sau đó cắm lại que vào ống nghiệm đựng dịch ban đầu, để trong hộp lạnh và chuyển đến nơi xét nghiệm trong vòng 4 tiếng. Tiến hành xét nghiệm vi sinh càng sớm càng tốt, tránh để quá 24h.
Đĩa thạch là phương pháp đặt thụ động, thường được đặt ở góc phòng, gần cửa, hoặc những nơi làm việc có nguy cơ ô nhiễm cao. Trong đĩa thạch chứa môi trường dinh dưỡng nên dễ dàng làm mẫu để xét nghiệm và xác định số lượng vi sinh vật trung bình trong phòng sạch theo cấp độ yêu cầu.
Sau tối đa khoảng 4 tiếng đồng hồ, đĩa môi trường sẽ được đậy nắp lại, mang đi ủ trong khoảng 24-48 giờ ở nhiều độ 37 độ C (Riêng ủ men, mốc là 25 độ C trong 3-5 ngày), rồi kết luận kết quả theo đơn vị CFU (Đơn vị hình thành khuẩn lạc) / số giờ đặt đĩa.
Hệ thống lọc không khí trong phòng sạch mặc dù không loại bỏ được hết toàn bộ vi sinh vật nhưng có thể phần nào hỗ trợ đảm bảo môi trường được kiểm soát. Tuy nhiên, để có được tiêu chuẩn yêu cầu cao nhất, cần thường xuyên tuân thủ các quy định, vệ sinh phòng sạch và đảm bảo các hệ thống lọc hoạt động tốt.